Đề: Ý nghĩa nhan đề và lời đề từ bài thơ Tràng Giang của Huy
Cận.
Trong bài thơ “Mai Sau” in trong tập thơ “Riêng chung” nhà
thơ Huy Cận đã tự bạch lòng mình:
“Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm...
Nỗi nhớ thương không biết đã nguôi chưa?
Hay lòng chàng cứ tủi nắng, sầu mưa
Cùng đất nước mà lặng buồn sông núi?”.
Thơ Huy Cận trước cách mạng rất buồn, vì vậy ông thường tìm
đến thiên nhiên để:
“Vui chung vũ trụ nguôi sầu trần gian”.
Xuất hiện lần đầu tiên trên thi đàn văn chương Việt Nam năm 1940 với tập thơ “Lửa thiêng”. Khi tập thơ xuất hiện ta bắt gặp một giọng thơ
buồn ảo não của:
“Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu”.
Linh hồn của tập thơ “Lửa thiêng” chính là bài thơ “Tràng
Giang”. Như cái tên của nó, bài thơ là một dòng sông dài. Đó là một dòng sông
tâm trạng để Huy Cận gửi gắm cái “tôi” của một thời thơ mới. Đồng thời “Tràng
Giang” là bài thơ thể hiện tình yêu quê hương đất nước một cách thầm kín trong
tâm hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại thi ca nói chung. Nhờ đó mà Xuân
Diệu nhận định: “Tràng Giang là bài thơ cuối cùng dọn lòng đến với giang sơn Tổ
quốc”.
Toàn bộ vẻ đẹp ấy kết tinh ngay ở nhan đề cũng như lời đề từ
của bài thơ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
1. Nhan đề: Bài
thơ hấp dẫn người đọc ngay từ nhan đề. Có những người suốt đời lặn lội với văn
chương nhưng cũng chẳng để lại cho đời một áng văn hay, một bài thơ đẹp. Vì
vậy, khi người nghệ sĩ sáng tác ra được một thi phẩm nghệ thuật, họ thường trăn
trở băn khoăn cho cách đặt nhan đề. Nhan đề của một tác phẩm thường chứa đựng nội
dung của nó. Viết về một xã hội tăm tối trước cách mạng, Ngô Tất Tố có tiêu
thuyết “Tắt Đèn”. Để ca ngợi cái tâm của người nghệ sĩ, những nho sĩ cuối mùa
nay vẫn còn vang bóng, Nguyễn Tuân có tác phẩm “Chữ người tử tù”,…Nhan đề của
bài thơ là “Tràng Giang” cũng là một trong những dụng ý nghệ thuật của nhà thơ
Huy Cận. “Tràng Giang” vốn là hai từ Hán Việt để chỉ dòng sông dài. Đó là dòng
sông Hồng-dòng sông đã gợi ý gợi tứ để nhà thơ Huy Cận viết thành công bài thơ
này. Dòng sông ấy vĩnh viễn thuộc về đất nước Việt Nam , nó có từ thuở khai thiên lập
địa. Nó không chỉ dài về không gian địa lý mà còn dài về khoảng thời gian lịch
sử. Trong bài thơ “Người đi tìm hình của nước”, Chế Lan Viên có viết:
“Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây”.
Trong Tiếng Việt hiện hành có hai từ nhằm miêu tả chiều dài
đó là từ “Tràng” và từ “Trường”. Ở đay nhà thơ Huy Cận không viết là “Tường
Giang” mà lại viết là “Tràng Giang”. Như vậy đủ thấy sự tinh tế của Huy Cận khi
sử dụng Tiếng Việt. Bởi chữ “Trường” chỉ đơn thuần là miêu tả chiều dài. Còn chữ
“Tràng” với âm “vang” vốn là âm mở, nó không chỉ miêu tả chiều dài của dòng
sông mà còn gợi lên chiều rộng của con sông. Đó là một con sông được vẽ lên với
không gian ba chiều: sâu chót vót; rộng mênh mông; dài dằng dặc. Dòng sông càng
mênh mông, càng vô biên, vô cùng bao nhiêu thì tâm hồn thi nhân càng cô liêu,
cô sầu bấy nhiêu. Như vậy, bài thơ với nhan đề “Tràng Giang”đã phần nào bộc lộ
được sở trường và phong cách thơ Huy Cận-một nhà thơ luôn bị ám ảnh bởi bước đi
của không gian.
2. Lời đề từ: Bìa
thơ “Tràng Giang” có lời đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”.
Trong một số thi phẩm nghệ thuật, ta bắt gặp một số lời đề
từ. Lời đề từ không phải là một thứ đồ trang sức làm đẹp da cho thi phẩm nghệ
thuật. Trái lại lời đề từ là một xuất phát điểm, là một dụng ý nghệ thuật. Nó
cung cấp cho người yêu thơ chiếc chìa khóa nghệ thuật để khám phá nội dung của
thi phẩm. Có lời đề từ là những câu văn xuôi mà tác giả mượn lời của người
khác. Ta nhớ tới lời đề từ của Nam Cao trong tác phẩm “Nước mắt” khi ông mượn
lời của nhà văn Pháp Francois Coppée, ông viết:
“Người ta chỉ xấu xa hư hỏng trước đôi mắt ráo hoảnh của phường ích kỷ. Nước mắt là miếng kính biến hình vũ trụ”.
Có lời đề từ là những câu văn vần của chính tác giả mà ta có
thể kể đến lời đề từ của Chế Lan Viên trong bài thơ “Tiếng Hát Con Tàu”:
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hóa những con tàu
Khi Tổ Quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu?”.
Lời đề từ còn cung cấp những thi liệu chính mà tác giả xây
dựng trong bài thơ. Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” đã gợi lên
trước mắt người đọc hai thi liệu chính: đó là trời rộng và sông dài. Điều này
được kết tinh trong hai câu thơ được xem là trung tâm của bài thơ “Tràng Giang”:
“Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”.
Hai khổ thơ còn lại của bài thơ này. Nếu khổ ba tác giả vẽ
lên hình ảnh dòng sông dài, mênh mông, dợn ngợp thì khổ thơ thứ tư tác giả lại
vẽ lên hình ảnh bầu trời cao rộng.
Hơn nữa, lời đề từ còn thể hiện rõ âm điệu, xúc cảm của bài
thơ. “Tràng Giang” là bài thơ có âm điệu buồn. Đó là nỗi sầu vạn kỉ thấm sâu
vào trong mạch cảm xúc của bài thơ này mà Lê Di viết:
“Là Tràng Giang khổ nào cũng dập dềnh sóng nướcLà Huy Cận khổ nào cũng lặng lẽ u sầu”.
Đồng thời lời đề từ còn thể hiện tình yêu quê hương đất nước
thầm kín trong tâm hồn Huy Cận nói riêng, của một thời đại trong thi ca nói
chung. Đó là những con người:
“Sống giữa giữa quê hương mà vẫn thấy mình thiếu quê hương”
(nói như Nguyễn Tuân).
Còn Chế Lan Viên viết:
“Nhân dân ở quanh ta mà sao chẳng thấyTổ quốc ở quanh mình mà có cũng như không”.
Nên chăng ta mượn lại lời nhận định của Hoài Thanh, Hoài
Chân trong “Một thời đại trong thi ca” để kết thúc bài viết của mình:
“Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm
bề sâu, nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu
lưu trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng cùng Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên,
đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng
lại tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.