https://www.google.com.vnĐề bài: Ý nghĩa nhan đề “Chữ Người Tử Tù”.
Trên
diễn đàn văn chương Việt Nam
mỗi nhà văn khẳng định vị trí của mình bằng một phong cách riêng. Nếu Thạch Lam
viết truyện không có cốt, không có mâu thuẫn, không kịch tính. Truyện của Thạch
Lam như một bài thơ trữ tình viết bằng văn xuôi. Nếu Huy Cận, một nhà thơ luôn
bị ám ảnh bởi bước đi của không gian. Không gian càng mênh mông, càng vô biên,
rợn ngợp bao nhiêu thì tâm hồn của Huy Cận càng cô liêu, cô sầu bấy nhiêu. Nguyễn
Tuân lại xuất hiện với một phong cách rất lạ. phong cách của Nguyễn Tuân được
giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh gói gọn trong một chữ “ngông”. Xuất hiện lần đầu tiên trên tao đàn văn chương Việt Nam
năm 1936 nhưng ngay từ những ngày đầu Nguyễn Tuân không có đủ độ chững chạc như
các văn giới cùng thời. Phải đến năm 1940, nhà xuất bản Tân Dân ấn hành tập
truyện “Vang Bóng Một Thời” lúc này
Nguyễn Tuân mới có được vị trí đặc biệt trên diễn đàn văn chương Việt Nam .
“Vang Bóng Một Thời” gồm 11 truyện ngắn mà ở đó có những tác phẩm không chỉ
“vang bóng một thời” mà còn vang bóng đến tận ngày hôm nay. Ai đã từng đọc “Vang bóng một thời” dễ dàng nhận thấy
linh hồn của tập truyện không gì khác chính là “Chữ người tử tù”. “Chữ người
tử tù” được đưa vào trong chương trình giảng dạy được xem là một trong những
kiệt tác của Nguyễn Tuân nói riêng và của văn học lãng mạn Việt Nam 1932-1945
nói chung. Truyện được Nguyễn Tuân tập trung ca ngợi hai chữ “Thiên Lương” trong sáng. Toàn bộ vẻ đẹp ấy
được kết tinh ngay ở nhan đề của tác phẩm: “Chữ
người tử tù”.
Có
những người lặn lội với văn chương cũng chẳng để lại cho mình một áng văn hay,
một bài thơ đẹp. Vì vậy khi người nghệ sĩ sáng tác ra được một đứa con tinh thần
thì họ thường băn khoăn cho cách đặt nhan đề. Bởi nhan đề thường chứa đựng cả nội
dung và nghệ thuật của tác phẩm. Nếu như trước cách mạng tháng Tám ta đã từng bắt
gặp nhan đề “Tắt Đèn” của Ngô Tất Tố,
khi ông viết về một xã hội tăm tối:
“Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi”
Ta
cũng đã bắt gặp nhan đề được thay đổi nhiều lần đó là nhan đề “Đôi Mắt” của Nam Cao. Truyện ban đầu có
tên là “Tiên sư anh tào tháo”, sau đổi
thành nhan đề vừa ngắn gọn vừa xúc tích đó là “Đôi mắt”. “Đôi mắt” được
Tô Hoài nhận định là: “Tuyên ngôn nghệ
thuật cho các nhà văn cùng trang lứa
với Nam
Cao trong những buổi đầu đi theo cách mạng và kháng chiến”.
Rồi
cũng có thể là nhan đề “Mảnh trăng cuối rừng”
của Nguyễn Minh Châu. Truyện ban đầu có tên là “Mảnh trăng”, phải đến lần in thứ hai đưa vào trong tập “ Những vùng trời khác nhau” Nguyễn Minh
Châu đã chắp thêm vào đó hai chữ “cuối rừng”.
Người yêu văn nhận thấy đây là một nhan đề cần có cho một câu chuyện đẹp.
Trở
lại với tác phẩm “Chữ người tử tù”.
Truyện ban đầu có tên là “Những dòng chữ
cuối cùng”. Nếu đặt nhan đề như vậy thì người yêu văn sẽ cảm thấy bi quan về
số phận của một con người dường như sắp bị chém đầu. Và việc cho chữ của Huấn
Cao chẳng khác nào việc để lại tài sản của người sắp chết cho người còn sống.
Bằng
sự nhạy cảm về nghệ thuật, Nguyễn Tuân đã đổi “Những dòng chữ cuối cùng” thành “Chữ người tử tù”. Với cách đặt nhan đề này không chỉ dừng lại ở việc
ca ngợi cái tài, cái tâm của người nghệ sĩ viết chữ đẹp – Huấn Cao:
“Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
Bên
cạnh đó nhan đề còn thể hiện được ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khi nhà văn
lách sâu vào trong đáy tâm hồn của Huấn Cao để phát hiện ở đó một con người với
cái “tâm” cao đẹp. Đó là cái “tâm” cần có của một người nghệ sĩ. Cái “tâm” đó
không chỉ tồn tại trong con người Huấn Cao mà nó còn được thể hiện qua nhận vật
Quản ngục – một con người phụng sự cái đẹp. Nếu xét trên bình diện của xã hội
thì rõ ràng Huấn Cao và viên quản ngục ở hai vị thế khác nhau. Thế nhưng một
khi đã yêu cái đẹp, đam mê cái đẹp thì con người ta có thể từ bỏ hết tất cả. Vì
vậy ta thấy dường như Huấn Cao như một viên quản ngục còn ngược lại. Nhan đề “Chữ Người Tử Tù” chỉ có bốn âm tiết mà gợi
cho người yêu văn nhiều điều. “Chữ” là nói đến phông kiến thức của một con người
tài cao học rộng, còn “Người tử tù” là nói đến một người tù phạm tội đang chờ
xét xử. “Chữ người tử tù” hé mở cho bạn
đọc thấy à nhân vật trong câu chuyện này là một người tù, nhưng người tù ấy lại
là một con người tài ba. Nhân vật ấy được xây dựng trên khuôn mẫu có thật đó là
Cao Bá Quát, người cùng thời với Nguyễn Văn Siêu.
Người xưa có câu: “Văn như
Siêu – Quát vô tiền Hán” có nghĩa là “Văn như ông Siêu ông Quát thời tiền Hán
không có”.
Chỉ
với bốn âm tiết thôi mà Nguyễn Tuân đã xây dựng được cả một nội dung đầy đủ của
tác phẩm. Thông qua nhan đề cũng như nội dung câu chuyện Nguyễn Tuân xứng đáng
là nhà văn của “chủ nghĩa duy mỹ”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét